Sáng ngày 18/10, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) đã tổ chức Hội nghị Công bố “Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao, Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045".
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương đã trình bày tóm tắt Quy hoạch hệ thống du lịch và Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, về Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phạm vi quy hoạch là toàn bộ lãnh thổ trên đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.
Đối tượng lập quy hoạch bao gồm các thành phần của hệ thống du lịch quốc gia, cụ thể: Sản phẩm du lịch; thị trường du lịch; hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch (hệ thống cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển khách du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, ăn uống...); nguồn nhân lực du lịch và hệ thống cơ sở đào tạo du lịch; tổ chức, quản lý hoạt động du lịch và liên kết phát triển du lịch; tổ chức không gian lãnh thổ du lịch (vùng du lịch, khu vực trọng điểm phát triển du lịch, tuyến du lịch quốc gia, Khu du lịch quốc gia và các địa điểm tiềm năng phát triển thành Khu du lịch quốc gia).
Quan điểm là phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và đi vào chiều sâu; chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy các ngành và lĩnh vực khác; góp phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Phát triển du lịch quốc tế đồng thời với tăng cường khai thác có hiệu quả du lịch nội địa; phát huy hiệu quả vai trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư; tăng cường hiệu quả liên kết ngành giữa du lịch với các ngành, lĩnh vực khác và liên kết vùng, địa phương và quốc tế. Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế quốc gia, phát huy yếu tố con người, lấy giá trị văn hóa Việt Nam làm nền tảng; gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch gắn với chuyển đổi số, tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh. Phát triển du lịch bền vững, sáng tạo, trên nền tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc; bảo vệ môi trường, ứng phó linh hoạt và hiệu quả với rủi ro, biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Mục tiêu năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có năng lực phát triển du lịch cao trên thế giới. Đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng tăng trưởng xanh; trở thành điểm đến có năng lực phát triển hàng đầu thế giới. Năm 2025, phấn đấu đón từ 25 - 28 triệu lượt khách quốc tế; 130 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 8 - 9%/năm. Đến năm 2030, đón 35 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng từ 13 - 15%/năm; đón 160 triệu lượt khách nội địa, tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 4 - 5%/năm.
Định hướng phát triển thị trường; định hướng phát triển sản phẩm, trong đó phát triển các dòng sản phẩm chính, phát triển các loại hình du lịch mới theo hướng đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với những xu hướng mới của thị trường, phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, nổi trội theo vùng; định hướng tổ chức không gian du lịch với trọng tâm phát triển 06 vùng, 03 cực tăng trưởng, 08 khu vực động lực, 05 hành lang du lịch chính, 11 trung tâm du lịch; hình thành hệ thống các Khu du lịch quốc gia và địa điểm tiềm năng phát triển thành Khu du lịch quốc gia; tổ chức, phát triển hệ thống doanh nghiệp du lịch; phát triển nguồn nhân lực du lịch. Quy hoạch đưa ra 6 quan điểm phát triển du lịch trên tinh thần bám sát Nghị quyết 08, Quy hoạch tổng thể quốc gia và kế thừa các quan điểm phát triển giai đoạn trước, Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2030, gồm: (1) Tiếp tục khẳng định vai trò mũi nhọn của du lịch; (2) Bổ sung, đi sâu các nội dung phù hợp xu hướng mới nhưng vẫn nhấn mạnh lấy giá trị văn hóa Việt Nam làm nền tảng, phát huy vai trò động lực của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư; (3) Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm hướng tới chất lượng và khả năng cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế quốc gia; (4) Phát triển du lịch bền vững, sáng tạo; (5) Nhấn mạnh chuyển đổi số, khoa học công nghệ và phát huy yếu tố con người; (6) Đặc biệt, quan điểm về ứng phó với rủi ro là nội dung mới và cần thiết ở giai đoạn tới.
Về thị trường du lịch, xác định và cơ cấu lại thị trường theo hướng chất lượng, đa dạng hóa các thị trường; phân loại, khai thác các thị trường có mức chi trả cao, lưu trú dài ngày. Đồng thời, kết hợp khai thác hài hòa giữa thị trường du lịch quốc tế và thị trường du lịch nội địa.
Về sản phẩm du lịch, phát triển 04 nhóm sản phẩm bao gồm các dòng sản phẩm chính là du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch đô thị; các dòng sản phẩm mới như du lịch golf, du lịch thể thao, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch MICE; các dòng sản phẩm đặc thù theo vùng như loại hình du lịch gắn với kinh tế đêm, gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn…
Tổ chức không gian phát triển du lịch được định hướng chi tiết và là những điểm mới của Quy hoạch lần này. Trong đó, định hướng phát triển và liên kết 6 vùng du lịch: vùng Trung du và Miền núi phía Bắc; vùng Đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam Bộ; vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng du lịch này phù hợp với phân vùng kinh tế, xã hội của Quy hoạch tổng thể quốc gia; định hướng phát triển từng vùng qua thế mạnh tài nguyên; hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Xác định các tiểu vùng, cụm du lịch, đô thị trung tâm dịch vụ cho từng vùng.
Hoạch định 3 cực tăng trưởng chủ đạo là TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và TP. Đà Nẵng. Bên cạnh đó, xác định 11 trung tâm du lịch được hoạch định trên cơ sở lợi thế và thực trạng phát triển của các đô thị có tiềm năng và lợi thế lớn, gồm: Hạ Long (Quảng Ninh), Ninh Bình (Ninh Bình), Huế (Thừa Thiên Huế), Đà Nẵng, Hội An (Quảng Nam), Quy Nhơn (Bình Định), Nha Trang (Khánh Hòa), Đà Lạt (Lâm Đồng), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Thơ, Phú Quốc (Kiên Giang).
Xây dựng và hình thành 8 khu vực động lực gắn với các giai đoạn phát triển cụ thể. Đến 2030, tập trung hình thành 06 khu vực động lực gồm: khu vực động lực phát triển du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; khu vực động lực phát triển du lịch Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh; khu vực động lực phát triển du lịch Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam; khu vực động lực phát triển du lịch Khánh Hòa - Lâm Đồng - Ninh Thuận - Bình Thuận; khu vực động lực phát triển du lịch TP. Hồ Chí Minh - Bà Rịa; khu vực động lực phát triển du lịch Cần Thơ - Kiên Giang - Cà Mau. Giai đoạn sau 2030, hình thành 02 khu vực động lực gồm: khu vực động lực phát triển du lịch Lào Cai - Hà Giang; khu vực động lực phát triển du lịch Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên.
Phát triển 5 hành lang du lịch chính bám sát Quy hoạch tổng thể quốc gia và có sự điều chỉnh gắn với đặc trưng của ngành du lịch, phù hợp với các khu vực động lực đã được định hướng, bao gồm: hành lang du lịch Bắc - Nam phía Đông; hành lang du lịch Bắc - Nam phía Tây; hành lang du lịch Đông - Tây phía Bắc; hành lang du lịch Đông - Tây (miền Trung); Hành lang du lịch Đông - Tây phía Nam. Ngoài ra, xác định 61 khu vực tiềm năng phát triển Khu du lịch quốc gia.
Xem chi tiết tài liệu Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại đây!